Nội dung tư vấn: Tôi là nhân viên bán hàng, năm nay 39 tuổi. Chồng tôi làm nghề tự do, chúng tôi có 2 con trai, cháu lớn 19 tuổi , cháu thứ hai 15 tuổi năm nay bắt đầu vào lớp 10
Từ trước kia, cách đây nhiều năm do anh ta quan hệ với nhiều người phụ nữ khác và về thường xuyên đánh chửi tôi. Nhưng vì con cái, vì danh dự gia đình tôi luôn âm thầm chịu đựng để các con tôi không hổ thẹn vì bố mẹ.
Sau một thời gian yên ổn, 4 năm trước chồng tôi đi làm ăn ở xa, về mối quan hệ gia đình và bạn bè chúng tôi luôn quan hệ tốt với mọi người. Trong thời gian qua tôi có chơi thân với một gia đình cùng xóm, chúng tôi hay qua lại và giúp đỡ nhau trong cuộc sống, không hiểu sao cách đây hơn 1 tháng anh ta có điện về cho em trai tôi và con trai tôi nói tôi đã quan hệ với chồng của người hàng xóm đó và bị vợ người đó bắt được và cô ấy điện vào nói với anh ta. Sau đó anh ta về và vợ chồng người hàng xóm đó đã sang nói chuyện và anh ta công nhận đó là việc anh ta dựng lên và trước mặt tôi và con trai tôi anh ta đã xin lỗi cô ấy. Mọi chuyện tưởng như vậy là xong nhưng những ngày tiếp theo anh ta luôn chửi mắng, hành hạ cả về thể xác và tinh thần, thậm chí còn đánh tôi và đi loan tin với tất cả mọi người về chuyện không có thật đó, luôn đe dọa, đòi ly hôn và đã đuổi tôi ra khỏi nhà, anh ta đã làm tổn thương danh dự, uy tín, tinh thần và sức khỏe đối với bản thân tôi và gia đình người hàng xóm. Hiện tại tôi đã phải đến để ở nhờ nhà mẹ đẻ tôi.
Xin hỏi , với tình tiết như thế tôi có thể tố cáo anh ta về tội lăng nhục người khác và vu khống người khác được không, nếu tố cáo thì thủ tục như thế nào xin được hướng dẫn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Trả lời tư vấn: cảm ơn câu hỏi và đề nghị tư vấn của bạn. Sau đây là tư vấn của chúng tôi về trường hợp của bạn như sau:
Căn cứ thông tin bạn cung cấp, chồng bạn có hành vi bịa đặt những thông tin biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm của bạn, hành vi này có thể đã có dấu hiệu của tội vu khống theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:
“Điều 156. Tội Vu Khống
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Vì động cơ đê hèn;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Như vậy, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể tố giác hành vi phạm tội của họ đến cơ quan công an nơi bạn đang cư trú.